Bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, chặt chẽ trong công tác quản lý thuế

17:05 | 15/08/2012

1,243 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), sáng 15/8, UBTVQH đã cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng, ý kiến còn khác nhau của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật Dự trữ quốc gia.

Các biện pháp gia hạn nộp thuế nhằm giải quyết khó khăn trước mắt cho doanh nghiệp (Ảnh minh họa)

Từ 1/7/2013, thực thi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế

Trình bày báo cáo tại phiên thảo luận, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Phùng Quốc Hiển cho biết, tại Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thảo luận về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế. Ngay sau kỳ họp, Thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách (TCNS) đã phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội để hoàn thiện một bước Dự thảo luật. Đến nay, phần lớn các nội dung đã được thống nhất giữa Thường trực Ủy ban TCNS với Cơ quan soạn thảo. Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị UBTVQH cho ý kiến về 3 nội dung còn có ý kiến khác nhau, đó là về trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong giải quyết hồ sơ hoàn thuế (Điều 60); Về thẩm quyền của Quốc hội, UBTVQH trong việc quyết định gia hạn nộp thu; Về điều khoản thi hành.

Liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, UBTVQH trong việc quyết định gia hạn nộp thuế thì quan điểm của Thường trực Ủy ban Tài chính Ngân sách (TCNS – cơ quan thẩm tra dự án luật) và cơ quan soạn thảo còn khác nhau.

Theo quy định của Luật Quản lý thuế hiện hành, việc gia hạn nộp thuế do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Có ý kiến đề nghị sửa đổi theo hướng: UBTVQH quyết định việc gia hạn nộp thuế vượt quá niên độ ngân sách; Chính phủ quyết định gia hạn nộp thuế trong niên độ ngân sách.

Về vấn đề này, cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như quy định của Luật Quản lý thuế hiện hành, vì đây là một trong các biện pháp được ban hành, áp dụng khi nền kinh tế có khó khăn nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất. Các biện pháp gia hạn nộp thuế nhằm giải quyết khó khăn trước mắt cho doanh nghiệp, không làm giảm nguồn thu mà số thu chỉ bị chậm lại trong một khoảng thời gian nhất định.

Thường trực Ủy ban TCNS cho rằng, thực tế trong nhiều năm gần đây, việc thường xuyên áp dụng gia hạn nộp thuế đã gây ảnh hưởng, khó khăn trong cân đối ngân sách theo dự toán đã được Quốc hội phê chuẩn và việc áp dụng gia hạn nộp thuế đại trà là chưa phù hợp với quy định tại Điều 49 của Luật Quản lý thuế (chỉ gia hạn theo từng trường hợp cụ thể).

Vì vậy, Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị quy định theo hướng: Việc gia hạn nộp thuế đối với từng trường hợp cụ thể (từng tập đoàn, doanh nghiệp...) giao Chính phủ quyết định. Trường hợp gia hạn thuế mang tính điều chỉnh chính sách, áp dụng trên diện rộng thì giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

Thảo luận về thẩm quyền quyết định gia hạn nộp thuế, đa số ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng tình tiếp tục giao cho Chính phủ, vì đây được coi là giải pháp điều hành để tháo gỡ khó khăn tức thời cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh, không làm giảm nguồn thu mà số thu chỉ bị chậm lại trong một khoảng thời gian nhất định.

Về xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế, xử phạt đối với hành vi khai sai, Thường trực Ủy ban TCNS và cơ quan soạn thảo thống nhất quy định: “Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức luỹ tiến: 0,05%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp không quá 90 ngày, 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp vượt quá thời hạn 90 ngày”.

Tại phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tập trung cho ý kiến về một nội dung quan trọng khác, đó là quy định về việc kiểm tra hồ sơ hoàn thuế (trong trường hợp hoàn thuế trước, kiểm tra sau). Theo Bộ trưởng Vương Đình Huệ, cơ quan thuế sẽ thực hiện phân loại. Những đối tượng rủi ro cao sẽ kiểm tra trước, hoàn thuế sau. Chỉ những doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về thuế, đạt tín nhiệm cao mới được hoàn thuế trước. Cơ quan quản lý không kiểm tra toàn bộ hồ sơ hoàn thuế mà chỉ chọn một số trường hợp để kiểm tra.

Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, chặt chẽ trong công tác quản lý thuế đồng thời cũng bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện, Thường trực Ủy ban TCNS đề nghị quy định chặt chẽ hơn. Đối với một số trường hợp: Cơ sở kinh doanh kê khai lỗ luỹ kế hai năm liên tục hoặc có số lỗ vượt quá vốn điều lệ; cơ sở kinh doanh bất động sản, kinh doanh thương mại, dịch vụ; cơ sở kinh doanh thay đổi địa điểm kinh doanh trong vòng 12 tháng; cơ sở kinh doanh có sự thay đổi bất thường giữa doanh thu tính thuế và số thuế được hoàn trong giai đoạn 12 tháng thì thời hạn kiểm tra là không quá 01 năm, kể từ ngày có quyết định hoàn thuế. Các trường hợp khác, thời hạn kiểm tra là không quá 03 năm, kể từ ngày có quyết định hoàn thuế.

Về vấn đề này, nhiều ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc kiểm tra đối với 4 trường hợp rủi ro cao như đã nêu là cần thiết. Tuy nhiên, không nên quy định kiểm tra tất cả các hồ sơ hoàn thuế như đề nghị của cơ quan thẩm tra vì việc này không thực sự cần thiết, đồng thời làm phát sinh một khối lượng công việc rất lớn cho đội ngũ cán bộ thuế.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước lưu ý thêm: “Đồng ý kiểm tra rủi ro thôi, nhưng diện làm có thể rộng hơn một chút, chú ý luân phiên để có nhiều doanh nghiệp được kiểm tra, đừng để lọt”.

Đề cập đến chế tài đối với các vi phạm pháp luật về thuế, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc cho rằng, cần phải xử lý nghiêm cả những cán bộ ngành thuế có hành vi tiêu cực, tiếp tay cho doanh nghiệp, cá nhân trốn thuế.

Phát biểu tại buổi thảo luận, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, khoảng 1/3 các quy định trong dự luật là cải cách hành chính công tác thu thuế. Vì vậy, việc xây dựng pháp luật về thuế phải cân bằng giữa hai mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và đơn giản cho công tác thu thuế; đồng thời tăng cường kiểm soát, hạn chế gian lận về thuế. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đồng tình với quy định công tác kiểm tra hoàn thuế chỉ nên làm theo xác suất chứ không nên thực hiện đại trà.

Đối với hiệu lực thi hành của Luật, đa số ý kiến thảo luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành với phương án Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013 nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn thay vì áp dụng từ 1/1/2014 như đề nghị của cơ quan soạn thảo.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế sẽ được trình Quốc hội phê duyệt tại Kỳ họp thứ 4, khai mạc vào tháng 10 tới.

Cân nhắc mục tiêu của dự án Luật Dự trữ quốc gia

Cũng tại phiên họp sáng nay, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thảo luận về dự án Luật Dự trữ quốc gia (DTQG). Các ý kiến thảo luận tập trung vào một số nội dung còn có ý kiến khác nhau về mục tiêu của DTQG; ngân sách nhà nước chi cho DTQG; thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan...

Thảo luận về mục tiêu của DTQG (Điều 1), nhiều ý kiến cho rằng, mục tiêu trong Dự thảo luật là quá rộng, chưa phù hợp với bản chất của DTQG, đề nghị chỉ tập trung vào mục tiêu phòng, chống và khắc phục những bất trắc, hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh. Việc thu hẹp mục tiêu sử dụng DTQG dựa trên cân đối nguồn lực, bỏ quy định mục tiêu “tham gia bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần bảo đảm an sinh xã hội“ để bảo đảm phù hợp với bản chất DTQG, tránh dàn trải; theo đó, nguồn lực DTQG chỉ được sử dụng trong trường hợp đột xuất, cấp bách, bất khả kháng, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế, đời sống, an sinh xã hội trên phạm vi rộng mang tính vùng, miền, toàn quốc và quốc phòng, an ninh quốc gia.

Trên cơ sở phân tích một số trường hợp cụ thể, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị, cần cân nhắc đề xuất của cơ quan soạn thảo đề nghị giữ quy định mục tiêu “tham gia bình ổn thị trường và góp phần bảo đảm an sinh xã hội” trong một số trường hợp cụ thể.

Xung quanh nội dung quy định ngân sách nhà nước chi cho DTQG ( Điều 24), khoản 1 Điều 24 quy định: "Chi cho tăng dự trữ quốc gia và mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất trong năm kế hoạch thuộc nhiệm vụ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước", nhiều ý kiến tán thành với quan điểm của cơ quan thẩm tra cho rằng, trước mắt nên giữ như quy định hiện hành vì xét về bản chất, chi cho DTQG có đặc thù riêng và không hẳn là chi thường xuyên. Do đó, nếu quy định trong Luật chi DTQG là chi thường xuyên sẽ không hợp lý. Hơn nữa, Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) đang trong quá trình soạn thảo và dự kiến trình Quốc hội trong nhiệm kỳ này. Do vậy, nên chỉnh sửa nội dung này cùng với quá trình sửa đổi Luật NSNN, theo đó sẽ quy định thành một mục riêng trong chi NSNN, như vậy sẽ bảo đảm tính chuẩn xác và phù hợp với đặc thù của DTQG ...

Về quyền hạn, trách nhiệm của Quốc hội, một số ý kiến cho rằng, cần bổ sung vào Dự thảo luật thẩm quyền của Quốc hội trong quyết định việc hình thành, định hướng sử dụng nguồn lực DTQG, chiến lược DTQG gắn với dự toán NSNN nhằm phù hợp với Luật tổ chức Quốc hội, bảo đảm thống nhất với kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn.

Cho ý kiến về vấn đề này, các thành viên UBTVQH tán thành với Cơ quan thẩm tra dự kiến tiếp thu và thể hiện vào Điều 11, 12 của Dự thảo luật theo hướng quy định Quốc hội quyết định việc hình thành, định hướng sử dụng nguồn lực DTQG gắn với dự toán NSNN hàng năm; quyết định kế hoạch 5 năm về DTQG, chiến lược DTQG.

Theo http://dangcongsan.vn

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc