Chân dung 12 Đại tướng của quân đội ta

07:00 | 09/12/2014

17,641 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đại tướng là cấp quân hàm sĩ quan quân đội cao nhất trong Quân đội Nhân dân Việt Nam với cấp hiệu 4 ngôi sao vàng. Theo quy định hiện hành, theo Điều 88 Hiến pháp Việt Nam 2013, quân hàm Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam do Chủ tịch nước, kiêm Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh Quốc gia quyết định phong cấp. Ngày 20/1/1948, Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân tự vệ Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên được phong quân hàm này.

Năng lượng Mới số 380

3 thời kỳ và 12 đại tướng

Đến tháng 12-2007, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 12 quân nhân được phong quân hàm Đại tướng. Có 2 quân nhân được đặc cách phong quân hàm Đại tướng không qua các cấp trung gian là Võ Nguyên Giáp (1948) và Nguyễn Chí Thanh (1959).

1. Võ Nguyên Giáp (1911-2013), được phong quân hàm Đại tướng năm 1948. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị (1951-1982), Bí thư Quân ủy Trung ương; từng giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông còn được vinh danh là Người anh cả của Lực lượng Vũ trang Nhân dân (LLVTND) Việt Nam, Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), Đại tướng của nhân dân, Đại tướng của hòa bình, được tặng thưởng Huân chương Sao vàng.

2. Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), được phong quân hàm đại tướng năm 1959. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị (1951-1967), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được truy tặng Huân chương Sao vàng.

3. Văn Tiến Dũng (1917-2002), được phong hàm Đại tướng năm 1974, là Ủy viên Bộ Chính trị khóa III, IV, V, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (1984-1986), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1980-1987), được tặng thưởng Huân chương Sao vàng.

4. Hoàng Văn Thái (1915-1986), được phong Đại tướng năm 1980, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa III, IV và V; Tổng tham mưu trưởng đầu tiên (1945-1953), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Huân chương Sao vàng (truy tặng 2007).

5. Chu Huy Mân (1913-2006), Ủy viên Bộ Chính trị (1976-1986), được phong Đại tướng năm 1982; Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1981-1986), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Đại tướng có tuổi Đảng cao nhất, Huân chương Sao vàng.

6. Lê Trọng Tấn (1914-1986), Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa IV và V; phong hàm Đại tướng năm 1984, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng (1980-1986), Huân chương Sao vàng (truy tặng 2007).

7. Lê Đức Anh (1920), Ủy viên Bộ Chính trị (1982-1997), được phong Đại tướng năm 1984, Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1987-1991), Huân chương Sao vàng.

8. Nguyễn Quyết (1922), được phong đại tướng năm 1990, Bí thư Trung ương Đảng khóa VI, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Huân chương Sao vàng.

9. Đoàn Khuê (1923-1998), Ủy viên Bộ Chính trị (1991-1997), được phong Đại tướng năm 1990, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1991-1997), Huân chương Sao vàng (truy tặng 2007).

10. Phạm Văn Trà (1935), được phong Đại tướng năm 2003, Ủy viên Bộ Chính trị (1997-2006), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (1997-2006), Anh hùng LLVTND.

11. Lê Văn Dũng (1945), Bí thư Trung ương Đảng (2001-2011), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (2001-2011), được phong Đại tướng năm 2007, Huân chương Quân công hạng Nhất.

12. Phùng Quang Thanh (1949), Ủy viên Bộ Chính trị (2006-), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (2006-), được phong Đại tướng năm 2007, Anh hùng LLVTND.

Thành phần và quê hương xuất thân

Có 6 người gốc miền Bắc: Văn Tiến Dũng (Hà Nội); Hoàng Văn Thái (Thái Bình); Lê Trọng Tấn (Hà Nội - Hà Tây cũ); Nguyễn Quyết (Hưng Yên); Phạm Văn Trà (Bắc Ninh); Phùng Quang Thanh (Hà Nội). 5 người gốc miền Trung: Võ Nguyên Giáp (Quảng Bình, Nguyễn Chí Thanh (Thừa Thiên - Huế), Chu Huy Mân (Nghệ An), Lê Đức Anh (Thừa Thiên Huế), Đoàn Khuê (Quảng Trị). Chỉ duy nhất có 1 người gốc miền Nam là Lê Văn Dũng (Bến Tre).

Hà Nội là địa phương xuất thân nhiều đại tướng nhất (3 người). Kế đó là Thừa Thiên - Huế (2 người). Các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Bến Tre, mỗi tỉnh xuất thân một người.

Có 9 người tham gia QĐNDVN từ năm 1945. Xuất thân nghề nghiệp trước khi gia nhập QĐNDVN, có 1 người là trí thức (Võ Nguyên Giáp), 4 công nhân (Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Lê Đức Anh, Nguyễn Quyết), 3 nông dân (Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê) và 1 là binh sĩ thuộc địa (Lê Trọng Tấn). Ba người còn lại tham gia sau năm 1945 là Phạm Văn Trà (1953), Lê Văn Dũng (1963), Phùng Quang Thanh (1967) và đều theo binh nghiệp từ năm 18 tuổi.

Những cương vị đã trải qua trong quân đội

Những chức vụ chủ chốt trong quân đội do các đại tướng từng nắm giữ là:

- Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang: 1 người (Võ Nguyên Giáp).

- Bí thư Quân ủy Trung ương: 2 người (Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng).

- Bộ trưởng Quốc phòng: 6 người (Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Phạm Văn Trà, Phùng Quang Thanh).

- Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: 4 người (Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, Lê Văn Dũng).

- Tổng Tham mưu trưởng: 8 người (Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Phạm Văn Trà, Lê Văn Dũng, Phùng Quang Thanh).

Có 2 người từng nắm giữ 3 chức vụ chủ chốt là Võ Nguyên Giáp (Tổng tư lệnh, Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Quốc phòng) và Văn Tiến Dũng (Bí thư Quân ủy, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng), 5 người từng nắm giữ 2 chức vụ là Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Phàm Văn Trà, Phùng Quang Thanh (đều cùng nắm giữ Tổng tham mưu trưởng rồi Bộ trưởng Quốc phòng) và Lê Văn Dũng (Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị). 4 người còn lại chỉ giữ một chức vụ là Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết (đều là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn (đều là Tổng tham mưu trưởng).

Về các chức vụ Đảng, tất cả 12 người đều từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó có 8 người được bầu vào Bộ Chính trị, 2 người vào Ban Bí thư.

Đến thời điểm này, có 9 người đã được trao tặng Huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam. 2 người được trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Thời điểm thụ phong quân hàm

Có 3 người được phong trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, 5 người được phong trong thời gian xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam. 4 người còn lại được phong vào thời bình.

Độ tuổi trung bình của các đại tướng khi thụ phong là 60 tuổi.

Có 9 người được phong tướng trước năm 1975, trong đó có 5 người thụ phong hàm tướng vượt cấp gồm Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh (thụ phong thẳng hàm Đại tướng), Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân (thăng vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng) và Lê Đức Anh (thăng vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng).

Các năm 1984, 1990 và 2007 đều có 2 đại tướng được phong trong năm.

Giai đoạn 1984-1986 có nhiều đại tướng tại nhiệm nhất: 6 người (Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước Chu Huy Mân, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó tổng tham mưu trưởng Thứ nhất Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia Lê Đức Anh).

Trong số 12 đại tướng, đến nay đã có 7 người về với tổ tiên; hưởng thọ cao nhất là Đại tướng Võ Nguyên Giáp (103 tuổi). 4 đại tướng đang nghỉ hưu là Lê Đức Anh (94 tuổi), Nguyễn Quyết (92 tuổi), Phạm Văn Trà (79 tuổi) và Lê Văn Dũng (69 tuổi). Chỉ còn Đại tướng Phùng Quang Thanh (65 tuổi) hiện đang tại ngũ, giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng.

Dương Tâm (tổng hợp)

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc