Các quốc gia châu Á đang xích gần lại gần nhau

07:00 | 06/03/2013

482 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) – Theo một chỉ số hội nhập vừa được ADB công bố trong Báo cáo theo dõi Hội nhập Kinh tế châu Á, các quốc gia trong châu lục đang hội nhập tốt hơn trong vòng một thập kỷ qua nhờ sự phát triển của thương mại và du lịch...

Một yếu tố khác quan trọng không kém, và được định chế tài chính này đánh giá cao, đó là do khu vực đã vượt qua được khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng ở khu vực đồng eu-ro. 

Ông Lei Lei Song, chuyên viên kinh tế chính của Văn phòng Hội nhập Kinh tế khu vực của ADB khẳng định, hướng đến phía trước, hội nhập sâu rộng hơn nữa sẽ khó khăn hơn khi những lĩnh vực hợp tác còn lại có độ phức tạp cao hơn. Châu Á cần tránh sự tự mãn và tiếp tục hợp tác cùng nhau trong giai đoạn hậu khủng hoảng này. Bản báo cáo cảnh báo rằng sự vật lộn của khu vực đồng eu-ro và nỗi lo sợ về tác động lan truyền đi kèm theo với mức độ hội nhập sâu rộng hơn có thể khiến cho các nhà hoạch định chính sách ở khu vực Châu Á tạm ngừng lại khi họ đánh giá bước đường phía trước của khu vực.

Tàu du lịch quốc tế cập cảng Tiên Sa (Đà Nẵng)

Chỉ số hội nhập mới này theo dõi đầu tư trực tiếp nước ngoài, các thị trường vốn, các tương quan sản lượng, thương mại và du lịch của Châu Á. Nó cho thấy mức độ hội nhập đã tăng lên từ mức cơ sở 100,00 điểm vào năm 2001 lên tới đỉnh là 233,27 điểm vào năm 2010 khi cả khu vực cùng nhau gắng sức ứng phó với cuộc khủng hoảng ở khu vực đồng eu-ro. Số liệu sơ bộ của năm 2011 cho thấy mức độ hội nhập giảm nhẹ xuống còn 192,22 điểm, tuy nhiên chỉ số này vẫn cao hơn nhiều so với chỉ số củ năm 2007 khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mới bắt đầu.

Báo cáo theo dõi Hội nhập Kinh tế châu Á được công bố nửa năm một lần ghi nhận rằng bên cạnh sự tăng trưởng của thương mại và du lịch nội khối, các thị trường vốn cũng đã trở nên liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Trong giai đoạn khủng hoảng, hợp tác khu vực đã ghi dấu ấn: các nước ASEAN+3 đã cùng nhau hành động để mở rộng sáng kiến đa phương hóa Chiangmai, một cơ chế bảo hiểm tài chính khu vực, Ấn Độ đã đề nghị tài trợ cho một cơ chế tương tự tại Nam Á và một số nước đã mở rộng các thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương.

Tuy nhiên, hội nhập tài chính và dịch chuyển lao động đã tụt lại. Nhu cầu về cơ sở hạ tầng quốc gia và xuyên biên giới còn rất lớn. Thậm chí trong lĩnh vực thương mại, vẫn còn nhiều việc cần phải làm để hội nhập sâu hơn. Thuế suất đã giảm xuống nhưng các rào cản khác đối với thương mại, chẳng hạn như quản lý hành chính ở khu vực biên giới, vẫn đang cản trở đáng kể đối với hội nhập sâu rộng hơn. Thương mại dịch vụ nội khối cũng đang đối mặt với nhiều trở ngại. Tác động của các khối thương mại khu vực, chẳng hạn như Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực vẫn chưa rõ ràng. Chúng có thể cạnh tranh hoặc chúng cũng có thể là những viên gạch xây dựng nên một hiệp định thương mại toàn cầu.

Chương chủ đạo của báo cáo chỉ ra sự cần thiết phải giải quyết vấn đề có quá nhiều hiệp định thương mại tự do chồng chéo nhau. Tính tại thời điểm tháng 1 năm 2013, châu Á có 109 hiệp định thương mại tự do so với chỉ có 36 hiệp định vào năm 2002, đồng thời 148 hiệp định khác đang được xây dựng và đàm phán ở các giai đoạn khác nhau. Sự tràn lan của các hiệp định vừa tạo ra sự phức tạp, vừa làm tăng thêm chi phí đối với các nhà xuất khẩu muốn tìm hiểu và tận dụng chúng. Châu Á cần phối hợp để đa phương hóa các hiệp định để những hiệp định song phương tốt nhất có thể áp dụng cho cả các đối tác thương mại khác.

Báo cáo cho rằng những hiệp định đa phương hóa như Khu vực thương mại tự do ASEAN với sự tham gia của ngày càng nhiều quốc gia ở trong cũng như ở ngoài khu vực Châu Á sẽ giúp đẩy mạnh thương mại toàn cầu, tạo thêm thu nhập trong bối cảnh chưa có một hiệp định thương mại toàn cầu.

Tùng Lê

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 ▼350K 83,650 ▼350K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 ▼350K 83,650 ▼350K
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,670 ▲20K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,660 ▲20K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,012 16,032 16,632
CAD 18,185 18,195 18,895
CHF 27,477 27,497 28,447
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,543 3,713
EUR #26,253 26,463 27,753
GBP 31,113 31,123 32,293
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.37 160.52 170.07
KRW 16.26 16.46 20.26
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,227 2,347
NZD 14,731 14,741 15,321
SEK - 2,252 2,387
SGD 18,123 18,133 18,933
THB 636.73 676.73 704.73
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 20:00