Quản lý kinh doanh xăng dầu:

Cần sửa đổi Nghị định 84

07:00 | 12/01/2013

1,005 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ ra đời với mục đích kiểm soát thị trường xăng dầu và đưa thị trường này đi đúng hướng, phục vụ lợi ích của cả doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, sau 3 năm áp dụng vào thực tế, Nghị định này đã bộc lộ rất nhiều “lỗ hổng” khiến thị trường luôn bị méo mó, chậm bám kịp diễn biến của thị trường và mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Công Thương tiến hành rà soát, đánh giá lại Nghị định 84.

Những “lỗ hổng”

Ngày 3/1, Bộ Công Thương vừa có Văn bản 120/BC-BCT báo cáo Thủ tướng Chính phủ đề xuất hướng sửa đổi Nghị định 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 nhằm điều hành linh hoạt và tăng cường quản lý đối với hệ thống kinh doanh xăng dầu. Trong đó, Bộ Công Thương đã chỉ ra và đề xuất một số quy định cần được nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi. Ngay như quy định được phép thuê cầu cảng, kho chứa, phương tiện vận tải giữa các DN dẫn đến không khuyến khích và không lựa chọn được các DN có năng lực thực sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tham gia thị trường.

Một quy định được cho là “lỏng lẻo”, đó là việc hiện có khoảng hơn 300 tổng đại lý nhưng phần lớn các đơn vị này lại đi thuê lại cơ sở vật chất của chính DN kinh doanh nhập khẩu xăng dầu đầu mối. Việc này dẫn đến thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng để găm hàng, mỗi lần điều chỉnh giá. Ngay việc không quy định cụ thể cơ quan quản lý nào chịu trách nhiệm quản lý các điều kiện đối với tổng đại lý, đại lý cũng gây khó khăn cho việc quản lý nguồn cung cũng như chất lượng xăng dầu.

Bên cạnh đó, theo đánh giá, công thức tính giá cơ sở hiện được tính bình quân phù hợp với số ngày dự trữ lưu thông 30 ngày nhưng xét về yếu tố thị trường thì lại không phản ánh đúng, sát với biến động giá hằng ngày của thị trường thế giới. Một số yếu tố trong giá cơ sở đã thay đổi như dẫn đến sự thay đổi trật tự một số yếu tố cấu thành giá.

Việc tồn tại hai tỉ giá khi hạch toán xăng dầu (tỉ giá liên ngân hàng để tính thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và tỉ giá bán của ngân hàng thương mại) cũng là vấn đề gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đặc biệt, việc quy định thời gian giữa hai lần điều chỉnh tăng, giảm giá liên tiếp tối thiểu là 10 ngày là chưa linh hoạt trong điều kiện giá thế giới diễn biến phức tạp.

“Để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất, DN đầu mối thường có xu hướng chọn phương án cố định ngày điều chỉnh giá là 10 ngày/lần. Điều này được lặp đi lặp lại dễ khiến đối tượng kinh doanh xăng dầu lợi dụng để đầu cơ, trục lợi, gây xáo trộn thị trường” - Bộ Công Thương nhận xét.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng kiến nghị về việc cần tách bạch lợi nhuận định mức ra khỏi giá cơ sở, đồng thời nên cho phép điều chỉnh giá ngay khi giá cơ sở tăng 3%, 5% hay 7% (thay vì mức 7%, 12% và trên 12% như hiện nay). Bên cạnh đó, định mức về thù lao, hoa hồng cho đại lý, tổng đại lý, Bộ Công Thương cũng đề xuất phải quy định ngay trong nghị định theo hướng chặt chẽ, rõ ràng

Không thể “buông” việc định giá

Thị trường xăng dầu “tăng giá nhanh, chậm giảm giá” đã bộc lộ nhiều bất ổn. Tăng giá, hoa hồng thấp, lỗ rồi lại tăng giá, lại lỗ, đó là một vòng luẩn quẩn mà việc điều hành giá xăng dầu đang vấp phải khi giao quyền định giá cho doanh nghiệp. Hướng tháo gỡ vòng luẩn quẩn này cho thấy cần nhanh chóng sửa đổi Nghị định 84/NĐ-CP về điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường. Khi nghị định này còn nhiều bất cập và chậm được sửa đổi thì không nên để doanh nghiệp độc quyền định giá mặt hàng chiến lược quan trọng như xăng dầu.

Thực tế với Nghị định 84, doanh nghiệp không được toàn quyền định giá xăng dầu bán lẻ. Theo quy định, định giá xăng dầu sẽ được chia thành ba bước: cụ thể, giá cơ sở tăng 0-7% DN được tự quyết định giá bán; tăng 7-12%, Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá; tăng trên 12%, Nhà nước tham gia định đoạt.

Theo đề xuất mới đây gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương cho rằng cần thu hẹp biên độ tăng giảm giá tương ứng xuống mức biến động 3%, 5% và 7% để không tăng giá sốc. Bộ này cũng lần đầu tiên đề xuất phương án khác là quy định con số cụ thể (tuyệt đối), khi giá cơ sở và giá hiện hành trong nước chênh 500 đồng/lít, DN được tự quyết định giá bán lẻ, nếu mức chênh 500-1.000 đồng/lít thì DN được quyết định giá bán kết hợp với sử dụng quỹ bình ổn. Liên bộ Tài chính - Công Thương chỉ can thiệp khi mức chênh lệch giữa giá bán lẻ và giá cơ sở cao hơn 1.000 đồng/lít.

Tuy nhiên, cơ chế định giá như vậy là hoàn toàn chủ quan, không phù hợp với nguyên tắc quản lý giá trong cơ chế thị trường. Hiện thị trường xăng dầu ở nước ta mới được xác lập nhưng chưa có sự cạnh tranh, bởi thị phần của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) vẫn còn chiếm 48%.

Về kiểm soát các doanh nghiệp độc quyền, nghị quyết lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã đưa ra giải pháp: “Đối với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực độc quyền, cần quy định kiểm soát giá, điều tiết lợi nhuận và cần tổ chức một số doanh nghiệp Nhà nước cùng cạnh tranh”. Trong pháp lệnh giá năm 2002, cũng như Luật Giá vừa được Quốc hội thông qua, tại Điều 19 đã chỉ rõ: “Nhà nước định giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền”.

Về định giá từ ngày 1/10/2009, khi Nghị định 84 có hiệu lực đến nay, cơ bản là hoạt động định giá vẫn là do Nhà nước điều tiết (40 tháng), doanh nghiệp chỉ có 2 tháng. Tuy nhiên, việc định giá của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vẫn chưa được đảm bảo khách quan. Điều này được thấy rõ thời gian vừa qua khi giá xăng dầu thế giới vừa tăng nhẹ, trong thời gian quy định, các doanh xăng dầu ngay lập tức kêu lỗ và kiến nghị tăng giá. Khi giá xăng dầu thế giới giảm liên tục và giảm sâu, các doanh xăng dầu đã không giảm giá kịp thời, chỉ giảm giá trước áp lực của công luận và các cơ quan chức năng, nhưng việc giảm giá chỉ nhỏ giọt.

Do vậy, khó có thể giao quyền quyết định giá hoàn toàn thị trường xăng dầu cho doanh nghiệp dù trong biên độ nhỏ bởi lợi dụng biên độ này doanh nghiệp sẽ xé nhỏ ra để tăng giá. Nếu còn tình trạng một doanh nghiệp áp đảo thị phần thì Nhà nước phải là đối tượng đứng ra can thiệp và định giá. Bởi chỉ có Nhà nước mới đảm bảo được nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Việc Nhà nước định giá sản phẩm độc quyền này là thực hiện đúng nguyên tắc quản lý giá trong cơ chế thị trường và đảm bảo quyền lợi của ba đối tượng tham gia, trong đó, quan trọng nhất là người tiêu dùng.

Sau 3 năm đưa vào thực thi, Nghị định 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 đã từng bước tạo ra một thị trường xăng dầu cạnh tranh. Hiện đã có 13 doanh nghiệp đầu mối kinh doanh nhập khẩu xăng dầu thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có 9 doanh nghiệp Nhà nước và 4 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ngoài ra, có khoảng 300 tổng đại lý, khoảng 4.500 đại lý và khoảng 10.000 cửa hàng xăng dầu, phần lớn là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.

Tính đến hết tháng 10/2012, thị phần của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) vào khoảng 48%, của Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PV Oil) vào khoảng 16,6%; của Tổng Công ty Thương mại XNK Thanh Lễ vào khoảng 5,3%... Nguồn cung xăng dầu trong thời gian qua cơ bản đáp ứng được tiêu thụ trong nước. Đáng chú ý, Nhà nước không còn phải bao cấp, bù lỗ xăng dầu. Giá bán lẻ xăng dầu trong nước về cơ bản đã phản ánh và bám sát được xu hướng biến động giá xăng dầu thế giới, làm giảm đáng kể tình trạng buôn lậu xăng dầu, chảy máu ngoại tệ…


Nhã Anh

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 12:00