Giảm lãi suất và mục tiêu tự do hóa lãi suất

11:07 | 08/01/2013

1,253 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Trong nhiều năm liên tục, đồ thị lãi suất ở nước ta là đường thẳng, nghĩa là lãi suất ở kỳ hạn ngắn và dài đều như sau. Điều này trái ngược với “quy luật hợp lý” của đường cong lãi suất, tức là kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao và ngược lại. Việc lãi suất bị “bẻ thẳng” trong một thời gian dài cũng có nhiều hệ lụy và tác động không nhỏ lên nền kinh tế nước ta.

Giảm lãi suất và các biện pháp hành chính

Lần thứ năm liên tiếp trong năm 2012, kể từ ngày 24/12/2012, trần lãi suất huy động được điều chỉnh giảm về mức 8%/năm, gần ngang bằng với mức lãi suất năm 2007 - là thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng và suy thoái toàn cầu. Nhìn nhận khách quan thì đây là một chủ trương đúng và hợp lý. Bởi giảm lãi suất sẽ giúp doanh nghiệp bớt một phần khó khăn về chi phí vốn, đồng thời mức giảm 1% sẽ tiếp tục củng cố niềm tin cho người dân về kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, theo nhận định thì sử dụng biện pháp áp chế hạ lãi suất còn nhiều tác động trái chiều đối với nền kinh tế.

Ngay sau khi quyết định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có hiệu lực, gần như ngay lập tức các ngân hàng (NH) đều niêm yết lãi suất huy động có kỳ hạn từ 1 đến 12 tháng là 8%/năm. Ở các kỳ hạn trên 12 tháng, lãi suất dao động ở mức 10-12%/năm. “Đường thẳng lãi suất” lại tiếp tục hình thành. Nhận định về hiện tượng này, một số chuyên gia kinh tế cho rằng, rất khó hình thành “đường cong lãi suất” nếu như chúng ta tiếp tục quản lý lãi suất bằng biện pháp hành chính. Mặc dù vậy, với việc NHNN cho các ngân hàng thương mại (NHTM) được áp lãi suất thỏa thuận với các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, nhiều ý kiến cho rằng, đây mới chỉ là bước đệm cần thiết để tiến tới tự do hóa lãi suất hoàn toàn.

Nhiều ngân hàng duy trì đường cong lãi suất bằng "đường thẳng"

Duy trì một “đường thẳng lãi suất” sẽ làm cơ cấu tiền gửi của các NH nghiêng về kỳ hạn ngắn. Với biểu lãi suất như hiện nay, người có ý định gửi tiền sẽ không chọn kỳ hạn dài, trừ khi có thêm khuyến mãi. Do đó, hoặc là NH chỉ huy động được tiền gửi kỳ hạn ngắn mà rất khó huy động dài hạn do thiếu linh hoạt và chênh lệch lãi suất không thực sự hấp dẫn với người gửi tiền. Hiện tại, cho dù nhiều NH yếu kém đã được NHNN xử lý thông qua hợp nhất, sáp nhập, tuy nhiên, động thái NHNN tiếp tục bơm ròng gần 14.000 tỉ đồng trên thị trường OMO để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM ngày 28/12/2012 cho thấy còn khá nhiều NHTM gặp vấn đề trong thanh khoản. Do áp trần lãi suất huy động, vì vậy, để cạnh tranh hút vốn buộc các NHTM có vấn đề thanh khoản vẫn phải huy động kỳ hạn ngắn kịch trần trong khi các NH lớn cũng phải chạy theo xu hướng thị trường nếu không muốn khách hàng của mình rút tiền đi gửi tại NH khác.

Mặt khác, với đường cong lãi suất lệch chuẩn như hiện nay khiến cho vấn đề thanh khoản của các NH càng dễ rơi vào trạng thái nguy hiểm, bởi nếu đa số vốn huy động đều nằm ở kỳ hạn ngắn, trong khi cho vay thường nằm ở trung và dài hạn sẽ khiến NH đối mặt với rủi ro thanh khoản. Vì vậy, các NH cần hết sức lưu ý cân đối kỳ hạn và lãi suất để tránh rủi ro thanh khoản có thể gặp phải, đặc biệt các NH nhỏ có sức cạnh tranh yếu.

Chính vì NH thiếu nguồn vốn trung dài hạn để cung cấp cho nền kinh tế, hệ lụy của tình trạng này là doanh nghiệp khó tiếp cận các nguồn vốn trung dài hạn - nguồn tài trợ quan trọng cho việc mở rộng sản xuất, kinh doanh hoặc tái cấu trúc doanh nghiệp - một trong những nhu cầu cấp thiết của doanh nghiệp trong giai đoạn kinh tế suy giảm.

Việc áp trần lãi suất bằng biện pháp hành chính của NHNN còn vô hình trung tạo ra những tiền lệ xấu trong huy động vốn như chi ngoài, “đi đêm” với khách hàng… Các hình thức lách luật, lách trần lãi suất nêu trên cũng từng được đại diện NHNN nhìn nhận là hết sức tinh vi và không dễ phát hiện xử lý.

Làm gì để có thể  tự do hóa lãi suất?

Để có đồ thị lãi suất hợp lý, các chuyên gia kinh tế khuyến nghị, chỉ có tự do hóa lãi suất với điều tiết lãi suất thông qua cung - cầu thị trường mới có thể đưa biểu đồ lãi suất trở lại đường cong vốn có.

Theo các chuyên gia kinh tế, để có thể tiến tới tự do hóa lãi suất, nước ta cần phải có đủ các yếu tố môi trường kinh tế vĩ mô vững chắc, có đầy đủ hành lang pháp lý, hệ thống NH lành mạnh, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán ổn định, đặc biệt nền kinh tế phải có khả năng hấp thụ và sử dụng vốn hiệu quả. Chiếu theo các điều kiện trên, có thể thấy rõ năm 2013 sẽ còn rất nhiều việc phải làm để có thể tiến tới tự do hóa lãi suất.

Mặc dù theo đánh giá tổng kết năm 2012, tình hình kinh tế vĩ mô nước ta cơ bản đã đi vào ổn định, lạm phát được kiềm chế ở mức khoảng 7%, cơ bản đã có hệ thống pháp lý đầy đủ, tuy nhiên theo đánh giá, hiện khả năng hấp thụ vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế chưa tốt. Theo thống kê, dù trước đó lãi suất huy động đã được hạ từ 14%/năm về mức 9%/năm từ tháng 6-2012, tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ đạt khoảng 6%. Như vậy, so với mức tăng trưởng tín dụng 15-17% đặt ra trước đó, mức tăng trưởng thực tế đã thấp hơn rất nhiều, điều này cũng cho thấy, sức hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp ở mức kỷ lục.

Yếu tố tiếp theo khiến tiến trình tự do hóa lãi suất đang bị chậm lại là hệ thống NH và thị trường tài chính, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán nước ta vận hành chưa ổn định, còn thiếu hiệu quả. Hiện tại, quá trình tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng của nước ta đang được đẩy mạnh, tuy nhiên, để hoạt động ổn định thì còn cần thêm thời gian. Trong khi đó, thị trường tiền tệ năm 2012 còn nhiều bất ổn, thị trường chứng khoán xuống dốc, nhiều công ty chứng khoán đang đứng bên bờ vực phá sản thì mục tiêu ổn định thị trường tài chính để làm điều kiện tự do hóa lãi suất xem ra chưa phải là khả thi vào hiện tại.

Với mức lạm phát, dự báo trong năm 2013 sẽ tiếp tục ở mức tương tự hoặc thấp hơn đã là một biểu hiện cho thấy kinh tế vĩ mô nước ta đã dần ổn định. Việc điều hành lãi suất và tiến tới tự do hóa lãi suất có lẽ sẽ thành hiện thực trong một thời gian tới khi nền kinh tế tiếp tục ổn định và các điều kiện cần thiết về thị trường tài chính, NH đã chín muồi.

Thành Trung

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 20:00