Kinh tế năm 2013: Vượt khó đi lên

06:34 | 16/01/2013

695 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Năm 2012 - một năm đầy khó khăn thách thức đối với Việt Nam đã qua đi. Dự báo năm 2013, đất nước vẫn phải tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Phóng viên Báo Năng lượng Mới đã có cuộc trao đổi với TS Đỗ Thức, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê để nhìn nhận lại nền kinh tế trong năm 2012 và đánh giá, đồng thời đưa ra giải pháp về một số chỉ tiêu cho năm 2013.

PV: Tiến sĩ đánh giá khái quát “bức tranh” kinh tế 2012 như thế nào?

TS Đỗ Thức: Năm 2012 là một năm đầy khó khăn đối với kinh tế Việt Nam. Những khó khăn ấy bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính tiền tệ của Mỹ, khi còn chưa kịp khắc phục thì “cơn bão” khủng hoảng nợ công của châu Âu lại tiếp tục nổ ra.

Bên cạnh đó, ảnh hưởng tích lũy chưa lớn mạnh, khiến bất ổn vĩ mô vẫn tồn tại. Khi bất ổn tích lũy tiêu dùng, chúng ta lại giải quyết bằng tăng trưởng tín dụng quá nóng, sau đó lại kiểm soát chặt chẽ nhưng lại chững lại. Nợ xấu ngân hàng, hàng tồn kho quá mức ở nhiều lĩnh vực, trong đó có bất động sản. Doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động hàng loạt, làm cho cầu giảm đi tuơng đối, cầu ảnh hưởng đến cung, khiến cho tình hình kinh tế càng trở nên khó khăn.

Năm 2012, theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, GDP đạt 5,03%, CPI là 6,81%, xuất khẩu hơn 114 tỉ USD. Ngoài ra, chúng ta đã nâng cao hiệu quả đầu tư công, đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước giảm dần. Trong điều kiện như vậy, chúng ta cũng đã giảm tỷ lệ hộ nghèo, an sinh xã hội được đảm bảo.

TS Đỗ Thức, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê

Ngay từ đầu năm 2012, Chính phủ đã đặt mục tiêu hàng đầu là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Đạt được những kết quả trên cho thấy, chúng ta thực hiện các biện pháp như vậy là hợp lý. Mặc dù chỉ tiêu tăng trưởng GDP là không cao, nhưng ở mức hợp lý vì mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát chứ không phải là tăng trưởng kinh tế.

Nhìn chung, năm 2012 tuy điều kiện hết sức khó khăn, song kết quả đạt được là thắng lợi của Chính phủ, cho thấy các giải pháp đặt ra ngày đang càng phát huy hiệu quả.

PV: Theo tiến sĩ, điểm nhấn kinh tế năm vừa qua là gì?

TS Đỗ Thức: Dù có nhiều ý kiến bình luận về khó khăn của xuất khẩu, nhưng theo tôi, về đại thể, tình hình xuất khẩu là đuợc.

Lạm phát (CPI) được kiềm chế ở mức thấp 6,81%, đặc biệt là so với năm 2011 là 18,13%.

Một điểm nhấn mà Việt Nam đạt được, đó là vấn đề an sinh xã hội luôn được quan tâm và cải thiện. 2 năm vừa qua tuy ngân sách khó khăn, nhưng chúng ta vẫn tăng lương từ 830.000 đồng lên 1.050.000 đồng, đây là mức cao không hề thấp. Mặc dù còn nhiều bất cập đối với khu vực Nhà nước, song chúng ta không thể mong muốn ngày một ngày hai thay đổi ngay được. Trong xã hội còn tồn tại nhiều bất bình đẳng xã hội, giai cấp giàu - nghèo ngày càng có sự chênh lệch lớn nhưng việc này cũng buộc phải chấp nhận và từng bước sẽ cải thiện dần dần.

PV: Tiến sĩ đánh giá thế nào về mục tiêu tăng trưởng 5,5 GDP cho năm 2013?

TS Đỗ Thức: Với dự báo kinh tế thế giới trong năm 2013 có một số mặt khả quan hơn năm 2012, với việc Chính phủ tiếp tục thực hiện các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường trong năm 2013 và với tinh thần chủ động, sáng tạo của chủ doanh nghiệp, sự cần cù, chịu khó của người lao động thì chỉ tiêu tốc độ tăng GDP năm 2013 là 5,5% có thể thực hiện được.

Tôi tin với điều kiện như vậy, nếu chúng ta làm tốt thì GDP năm nay thậm chí còn hơn 5,5%.

PV: Tiến sĩ có thể dự báo gì về CPI quý I và cả năm 2013?

TS Đỗ Thức: Dự báo về CPI mấy năm qua là cực kỳ khó. Ban đầu, chúng ta dự báo năm 2011 là 15-16% thì tăng lên 18%. Năm nay tháng 9 dự báo là 8%, thậm chí nhiều ý kiến cho rằng sẽ là 2 con số, nhưng CPI phụ thuộc rất nhiều vào giá cả các mặt hàng mà Chính phủ quản lý giá, thông qua các bộ, ngành. Ví dụ như Tổng cục Thống kê vừa công bố con số CPI nhưng ngay sau đó điện lại tăng 5%, vì vậy CPI lập tức tăng lên.

Tuy giá điện tăng 5% không ảnh hưởng trực tiếp nhiều đến CPI nhưng điện tăng ảnh hưởng đến sản xuất, từ đó sẽ vào CPI. Vì vậy đề nghị các bộ, ngành trước khi điều chỉnh giá nên thông báo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như Tổng cục Thống kê biết được chủ trương thì công tác dự báo sẽ sát hơn.

Theo tôi nếu điều hành hợp lý thì CPI năm 2013 sẽ là dưới 8% theo mục tiêu của Quốc hội. Mức đó là vừa phải, bởi nếu cao hơn nữa thì sẽ ảnh hưởng đến đời sống và mặt bằng giá mới của thế giới thì không thể thấp đuợc. Thứ hai là, một nền kinh tế cần tăng trưởng dương, thậm chí là dương hợp lý thì CPI không thể quá thấp.

Theo như mục tiêu GDP của cả năm 2013 là 5,5% thì Quý I tương ứng sẽ khoảng 4%.

PV: Có ý kiến cho rằng, chúng ta vẫn chưa đủ sức kiềm chế lạm phát, tiến sĩ bình luận như thế nào về ý kiến này?

TS Đỗ Thức: Nếu chúng ta vừa muốn GDP cao vừa muốn kiềm chế CPI thì điều này là rất khó khăn, bởi không thể tạo ra phép màu trong một giai đoạn ngắn. Vì nền kinh tế hiện nay là hệ quả của một quá trình dài khi cân đối về vĩ mô không tốt lắm.

Nên vừa muốn cả hai là điều rất khó, vì vậy, cần phải lựa chọn một giải pháp hài hòa là CPI vẫn phải tăng, đồng thời GDP vẫn phải mở ra, điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của đầu tư. Tôi cho rằng, tái cơ cấu kinh tế là phải đầu tư sao cho có hiệu quả chứ không phải loay hoay tháo gỡ, cứu doanh nghiệp này hay cứu doanh nghiệp kia. Mà chúng ta phải thấy doanh nghiệp nào còn làm ăn hiệu quả thì cứu, doanh nghiệp nào không làm ăn hiệu quả thì phải chấp nhận bỏ.

PV: Nhiều tổ chức khuyến cáo ngân hàng không nên hạ lãi suất, vì lo sợ CPI sẽ quay trở lại. Ý kiến của ông thế nào?

TS Đỗ Thức: Giảm lãi suất không phải là điều kiện để tăng CPI. Hiện nay doanh nghiệp vay vẫn khó khăn, do nhiều lý do kể cả phía người vay và kể cả phía ngân hàng. Về nguyên lý, tôi đồng ý vẫn nên tiếp tục giảm lãi suất. Khi CPI không tăng thì việc giảm lãi suất huy động là điều kiện để giảm lãi suất cho vay và việc giảm lãi suất cho vay là việc nhanh chóng cần làm, chứ chênh lệch vẫn lớn thì nguời ta cho rằng, ngân hàng đang được hưởng lợi. Vì vậy, cần có giải pháp cụ thể từ phía Chính phủ và ngân hàng để doanh nghiệp tiếp cận được vốn thì tôi tin là sản xuất mới có thể khôi phục lại được.

Quân Lê(thực hiện)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 ▼400K 75,600 ▼300K
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 ▼400K 75,500 ▼300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 18/04/2024 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 18/04/2024 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,455 7,665
Trang sức 99.9 7,445 7,655
NL 99.99 7,450
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,430
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,520 7,695
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,520 7,695
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,520 7,695
Miếng SJC Thái Bình 8,230 8,410
Miếng SJC Nghệ An 8,230 8,410
Miếng SJC Hà Nội 8,230 8,410
Cập nhật: 18/04/2024 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 18/04/2024 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 18/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,079 16,099 16,699
CAD 18,178 18,188 18,888
CHF 27,426 27,446 28,396
CNY - 3,444 3,584
DKK - 3,549 3,719
EUR #26,291 26,501 27,791
GBP 31,139 31,149 32,319
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.62 160.77 170.32
KRW 16.32 16.52 20.32
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,235 2,355
NZD 14,804 14,814 15,394
SEK - 2,252 2,387
SGD 18,151 18,161 18,961
THB 638.93 678.93 706.93
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 18/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 18/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 18/04/2024 11:00