Chính sách đối ngoại của Trung Quốc phá sản?

07:09 | 09/07/2014

3,150 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Lịch sử ngoại giao thế giới đang chứng kiến một “ca” rất lạ: thay vì xây dựng đồng minh và lôi kéo đồng minh, kể cả thù địch về phe mình, Trung Quốc lại đẩy ra tất cả để đứng riêng một góc!

Năng lượng Mới số 337

Có lẽ cẩm nang ngoại giao thế giới chưa từng có trường hợp nào lạ lùng như vậy. Xét riêng yếu tố địa lý, Trung Quốc thuận lợi hơn Mỹ. Với ưu thế sức mạnh kinh tế, Trung Quốc có thể không khó khăn trong việc thu phục Nhật Bản hoặc Hàn Quốc. Thực tế thì Bắc Kinh đã có nhiều thuận lợi trong việc thực hiện điều này. Suốt những năm đầu thế kỷ XXI, có nhiều dấu hiệu cho thấy một số đồng minh chủ lực của Mỹ đã có khuynh hướng ngả sang Trung Quốc.

Tại Nhật Bản, làn sóng yêu cầu Mỹ rút quân trở nên rầm rộ, không chỉ trong dư luận mà còn trên chính trường. Năm 2009, cử tri Nhật Bản đẩy đảng Dân chủ Tự do (LDP) ra khỏi chính trường, lần đầu tiên trong 50 năm và đưa đảng Dân chủ (DPJ) lên nắm quyền - một đảng phái có nhiều thủ lĩnh từng hoạt động chính trị thời chống chiến tranh Việt Nam. Tân Thủ tướng Yukio Hatoyama công khai nói về ý tưởng thành lập một liên minh Đông Á mới và bày tỏ sự gần gũi với Bắc Kinh. Đầu năm 2010, chính trị gia Ichiro Ozawa dẫn một phái đoàn hùng hậu 143 nghị sĩ Nhật sang Bắc Kinh. Ichiro Ozawa là một chính khách sừng sỏ của Nhật, được mệnh danh “tướng quân trong bóng tối” bởi ảnh hưởng hậu trường của ông lên sân khấu chính trị Nhật. Thoạt đầu là người của LDP (tổng thư ký từ 1989-1991) nhưng sau đó nhảy sang DPJ và làm tổng thư ký đảng này từ 2009-2010.

Chính sách đối ngoại của Trung Quốc phá sản?

Thủ tướng Australia Bob Hawke và Tổng bí thư Hồ Diệu Bang (1985)

Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau, tháng 8-2010, quan hệ Nhật - Trung trở nên căng thẳng, bắt đầu từ vụ tuần duyên Nhật bắt một thuyền trưởng Trung Quốc khi đoàn tàu cá Trung Quốc thâm nhập gần quần đảo Senkaku. Phản ứng Bắc Kinh là rất hung hăng. Họ yêu cầu Nhật thả thuyền trưởng Trung Quốc ngay lập tức và bật đèn xanh cho loạt cuộc biểu tình dữ dội chống Nhật. Cùng lúc, Trung Quốc ngăn một số mặt hàng xuất khẩu đến Nhật trong đó có đất hiếm. Đây là một trong những lần đầu tiên Bắc Kinh áp dụng đòn trừng phạt kinh tế trong một xung đột lẽ ra không đáng làm to chuyện. Yoichi Funabashi, Tổng biên tập tờ Asahi Shimbun, gọi phản ứng Trung Quốc là một “chiến dịch gây sốc và kinh ngạc”. Funabashi chính là người từng hoạt động tích cực việc khuyến khích trao đổi du học sinh hai nước và là một trong những người mạnh mẽ kêu gọi Nhật hàn gắn vết thương chiến tranh với Trung Quốc. Chỉ vài ngày sau vụ trên, Funabashi buộc phải thốt lên: “Nhật và Trung Quốc hiện ở hiện trường một vụ đổ nát toàn diện và quanh cảnh trông ảm đạm trơ trọi trống vắng”. Trong cuộc phỏng vấn sau đó, Funabashi cảnh báo rằng châu Á đang đối mặt với một thứ luật rừng!

Quan hệ Nhật - Trung tiếp tục xuống cấp vào năm 2012, khi thị trưởng Tokyo, Shintaro Ishihara, đề nghị mua Senkaku. Để giảm bớt nồng độ liều lượng, Chính phủ Tokyo nhảy vào can thiệp và mua một số đảo thuộc Senkaku. Tokyo nghĩ rằng việc này, dù sao, cũng còn tỏ ra ít khiêu khích hơn so với việc để một cá nhân như Shintaro Ishihara, vốn nổi tiếng ái quốc cực đoan, can dự vào một vấn đề chính trị nhạy cảm. Phản ứng Bắc Kinh thậm chí còn dữ dội hơn hai năm trước. Chính thái độ của Trung Quốc đã làm thay đổi chính trường Nhật: cánh chính trị thân Trung, DPJ, bị hất cẳng; và đảng LDP, thân Mỹ, trở lại, vào cuối năm 2012.

Australia là một trường hợp nữa của sự phá sản chính sách đối ngoại Trung Quốc. Là một trong những nước đầu tiên nhận ra sự trỗi dậy Trung Quốc, Australia bắt đầu thắt chặt quan hệ kinh tế với Bắc Kinh từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Mùa xuân mới trong cuộc tình Canberra - Bắc Kinh đã bắt đầu bằng sự kiện “xông đất” của Hồ Diệu Bang năm 1985. Thủ tướng Australia Bob Hawke háo hức đến mức phá lệ nguyên tắc thông thường trong ngoại giao tiếp đón nguyên thủ quốc gia và xem Hồ Diệu Bang như một người bạn khi đưa họ Hồ đến vùng đất giàu khoáng sản Pilbara xa xôi ở phía Tây nước Australia cách Canberra hơn 3.000km.

Bức ảnh chụp hai người, đều vận sơmi trắng và không mang cà vạt, đứng trên một ngọn núi hướng mắt về nơi xa xa, nơi có một trong những quặng sắt lớn nhất thế giới, đã trở nên nổi tiếng như một dấu ấn lịch sử quan hệ hai nước. Năm 2007, Kevin Rudd, người mà báo chí Trung Quốc gọi thân mật bằng cái tên tiếng Hoa là Lục Khắc Văn (Lu Kewen), đã trở thành lãnh đạo một nước phương Tây đầu tiên biết nói thông thạo tiếng Hoa. Hiện tại, 1/4 xuất khẩu Australia đang đổ vào thị trường Trung Quốc. Tương tự Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước châu Á, Australia hưởng lợi đáng kể từ sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Quan hệ kinh tế song phương đến nay vẫn tăng đều. Trong chuyến công du Trung Quốc vào tháng 4-2014, Thủ tướng Australia Tony Abbott đã dẫn theo phái đoàn đông chưa từng có (hai nước dự kiến ký Hiệp định Tự do thương mại vào cuối năm 2014).

Sự kiện Australia tiếp cùng lúc hai nguyên thủ lớn - George W. Bush và Hồ Cẩm Đào, vào tháng 10-2003 - đã giúp người ta có cái nhìn rõ hơn mối tương quan trong quan hệ của Australia với Mỹ và Trung Quốc. Cả hai nguyên thủ đều được mời nói chuyện trước Quốc hội. Trong khi Bush nói về cuộc chiến chống khủng bố, Hồ Cẩm Đào, hôm sau, nói về sự tôn trọng các giá trị khác nhau. “Thế giới chúng ta là một nơi đa dạng, giống như cầu vồng đa sắc vậy” Hồ Cẩm Đào phát biểu - “Các nền văn minh, hệ thống xã hội, mô hình phát triển…, dù khác nhau thế nào, cũng phải nên tôn trọng nhau, nên học từ những ưu điểm riêng của nhau”. Tờ Australian Financial Review đã kết luận bằng một nhận định: Bush đã đến nhưng Hồ đã chinh phục! Phản ứng chính trường lẫn dư luận Australia thời điểm đó cho thấy sự hình thành mơ hồ một dấu hiệu không dứt khoát trong việc xây dựng quan hệ đối ngoại của Canberra đối với Mỹ và Trung Quốc.

Chính sách đối ngoại của Trung Quốc phá sản?

Ngoại trưởng Dương Khiết Trì và chính khách Nhật Ichiro Ozawa (tháng 4-2008)

Đó là thời điểm rộ lên nguồn tin cho biết, một số viên chức cấp cao Trung Quốc đã thẳng thắn đề nghị Canberra “chơi” theo “kiểu Pháp”: Vẫn là một phần của liên minh phương Tây nhưng tách khỏi Mỹ để đi theo con đường riêng. Khuynh hướng “bỏ Mỹ - thân Trung” còn được ủng hộ từ một số nhân vật tên tuổi. Cựu Thủ tướng Australia Malcolm Fraser nói rằng cách tiếp cận của Mỹ đối với Trung Quốc là một phiên bản thời Chiến tranh lạnh. Chỉ trích của cựu cố vấn chính phủ Hugh White thậm chí còn gay gắt hơn. Trong bài bình luận “Power Shift” (Chuyển đổi quyền lực), Hugh White viết: “Nếu không rút khỏi châu Á và không chịu chia sẻ quyền lực với Trung Quốc, Mỹ phải chấp nhận đấu với thách thức Trung Quốc về khả năng ai mới là kẻ xứng đáng lãnh đạo”. Greg Sheridan, biên tập viên đối ngoại của tờ The Australian, gọi bài bình luận của White là “tài liệu chiến lược độc nhất và ngu xuẩn nhất từng được soạn cho lịch sử Australia”!

Tuy nhiên, một lần nữa, Bắc Kinh đã làm vuột mất bàn tay người tình Canberra. Một lần nữa, cũng chỉ bắt nguồn từ một sự kiện không mấy nghiêm trọng. Năm 2009, Hồ Sĩ Thái (Stern Hu), công dân Australia gốc Hoa làm việc cho tập đoàn khai thác khoáng sản Rio Tinto tại Thượng Hải, bị Trung Quốc bắt với cáo buộc đánh cắp bí mật quốc gia. Lúc đó, Rio Tinto đang dính vào cuộc tranh cãi căng thẳng với Bắc Kinh quanh vấn đề giá sắt. Cáo buộc dành cho Hồ Sĩ Thái sau đó được làm nhẹ bớt, với tội đánh cắp bí mật thương mại. Hồ Sĩ Thái bị kết án 10 năm tù. Báo chí Australia tin rằng chính vụ tranh cãi với Bắc Kinh mới là nguyên nhân khiến Rio Tinto bị “xử” và Hồ Sĩ Thái chỉ là một nạn nhân vạ lây. Một tháng sau, Bắc Kinh lại làm dữ yêu cầu đòi loại một phim về Rebiya Kadeer, nhà hoạt động chính trị lưu vong thuộc Tân Cương, khỏi chương trình festival điện ảnh Melbourne. Với một nước dân chủ mà hoạt động văn hóa luôn thể hiện tinh thần tự do như Australia, sự can thiệp như vậy là không thể chấp nhận. 

Cuối năm 2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama đến Australia, tuyên bố đưa 25.000 thủy quân lục chiến đến nước này. “Lợi ích lâu dài của chúng tôi trong khu vực đòi hỏi sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu vực. Hoa Kỳ là một cường quốc Thái Bình Dương và chúng tôi đến đây để ở lại” - Obama phát biểu tại Quốc hội Úc. Sự hiện diện của 25.000 thủy quân lục chiến Mỹ đã thể hiện một “chính sách bảo hiểm” cho một tương lai không chắc chắn trước sự đe dọa an ninh từ Trung Quốc mà Australia bắt đầu nhận ra. Và trong chuyến công du Hoa Kỳ vào giữa tháng 6-2014, Tony Abbott đã đứng tên chung trong một bài xã luận với Barack Obama đăng trên Los Angeles Times. Bài có đoạn: “Cả Australia và Hoa Kỳ đều quan ngại rằng hành vi gây hấn tăng dần trong các cuộc tranh chấp biển đảo tại châu Á đang tạo ra một nguy cơ ngày càng tăng của tính toán sai lầm và, trong trường hợp xấu nhất, dẫn đến xung đột… Cả hai nước chúng tôi đều phản đối việc sử dụng hăm dọa, ép buộc hoặc xâm lược trong vấn đề tranh chấp của bất kỳ quốc gia nào”.

Trung Quốc đang cô độc hơn bao giờ hết. Bắc Kinh có những gắn kết kinh tế khắp châu Á nhưng xét về đồng minh chiến lược thì không. Chính sách áp đảo chính trị bằng kinh tế đã không giúp Bắc Kinh cắt được những mắt xích đồng minh Mỹ. Càng cố đẩy Mỹ ra xa, Trung Quốc càng khiến Mỹ gắn chặt quyền lợi hơn với châu Á. Càng cố lôi kéo các nước châu Á, Trung Quốc càng khiến họ nhảy sang về phía Mỹ. Xét về ngắn hạn, chính sách ngoại giao tàu chiến của Trung Quốc là thành công. Không thể phủ nhận điều này. Xét về lâu dài, Trung Quốc sẽ chết gục trên chính những gì mà Trung Quốc đang “gặt hái” được của ngày hôm nay. Chính Thời Ân Hoằng (Shi Yinhong), học giả có sức ảnh hưởng mạnh tại Trung Quốc, còn phải thốt lên: “Chúng tôi đã giành được những điều hoàn toàn trái ngược với những gì mà chúng tôi hy vọng muốn có”!

Mạnh Kim